Ngày 5/11, Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: "Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả". Báo VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư.
1. Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đang đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; cũng đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn Cách mạng mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm. Ảnh: Nhật Bắc
Mô hình tổng thể tổ
chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta từ năm 1945 đến nay cơ bản ổn định gồm 3
khối (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội). Với cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, tổ
chức bộ máy của từng khối đã có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu cách mạng của
từng giai đoạn lịch sử. Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đến nay, khái niệm “Hệ
thống chính trị” chính thức được sử dụng đánh dấu sự phát triển tư duy, nhận
thức của Đảng về yêu cầu, nhiệm vụ đối với hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi
mới.
Bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xuất phát từ
tầm quan trọng đặc biệt và đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn phát triển nóng bỏng
của đất nước, qua nhiều kỳ đại hội, nhất là trong các đại hội gần đây, trong
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, XII, XIII đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể
về tinh gọn tổ chức bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
Từ Đại hội VII đến
nay, Đảng ta liên tục ban hành nhiều Nghị quyết, Kết luận để lãnh đạo thực hiện
chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, tổ
chức bộ máy hoạt động hiệu lực hiệu quả, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 09/2/2007 Ban Chấp hành Trung ương khóa
X về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng đổi mới tổ
chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; Nghị
quyết số 17-NQ/TW, ngày 01/8/2007 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà
nước; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02/2/2008 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng; Nghị quyết
số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 18-NQ/TW,
ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị; Kết luận số 50-KL/TW, ngày 28/2/2023 của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18; Kết luận số 37-KL/TW, ngày
02/2/2009 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ đến năm 2020; Kết luận số 63-KL/TW, ngày 27/5/2013 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương,
bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm
2020; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương;
Kết luận số 62-KL/TW, ngày 8/12/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội; Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh
giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện các Nghị
quyết, Kết luận của Đảng, hệ thống tổ chức đảng các cấp, bộ máy Nhà nước từ
Trung ương tới cơ sở, tổ chức cơ quan Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội từng bước được đổi mới, phát huy hiệu lực, hiệu quả; chức năng,
nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức trong hệ thống chính trị được
phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với
Cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua vai trò, sức mạnh của hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã bảo vệ vững chắc thành
quả cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền;
kinh tế xã hội phát triển, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần của nhân dân. Những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác
tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một trong những điều kiện cơ bản, quyết
định đạt được những thành tựu vĩ đại sau 40 năm đổi mới đất nước.
Qua 7 năm thực hiện
Nghị quyết số 18 ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chúng ta đã đạt được một số
kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong
hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ
chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị,
địa phương chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, quyết tâm chưa cao, hành động chưa quyết
liệt, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đồng bộ, tổng thể, chưa gắn tinh giản
biên chế với cơ cấu lại... một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương,
dẫn đến tồn tại cơ chế xin-cho, dễ nảy sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực...
Chính vì vậy, cho đến
nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan,
bộ phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lặp, chồng chéo; phân định trách nhiệm,
phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, hợp lý, có chỗ bao biện làm thay, có nơi bỏ
sót hoặc không đầu tư thích đáng… Chất lượng tham mưu, đề xuất của một cơ quan,
tổ chức đảng với Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với một số lĩnh vực
còn hạn chế; năng lực điều phối, hướng dẫn, tổ chức thực hiện trong toàn Đảng
chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; phân định phạm vi quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của
các bộ chưa triệt để; một số nhiệm vụ liên thông, gắn kết nhau hoặc cùng một
lĩnh vực nhưng giao cho nhiều bộ quản lý.
Tổ chức bộ máy của một
số cấp, ngành đến nay cơ bản vẫn giữ nguyên về số lượng, việc sắp xếp chưa gắn
với nâng cao hiệu lực, hiệu quả, xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ. Bộ máy trong bộ, cơ quan ngang Bộ còn nhiều tầng nấc, có cấp không rõ
địa vị pháp lý; đơn vị trực thuộc có tư cách pháp nhân tăng, gia tăng tình
trạng “Bộ trong Bộ”. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa gắn
với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ.
Những tồn tại, hạn
chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng. Bộ máy
cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân
dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống
hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức
trên thực tế. Sự chồng chéo, phân định không rõ chức năng, nhiệm vụ dẫn đến
không rõ trách nhiệm, “lấn sân”, cản trở, thậm chí “vô hiệu hóa” lẫn nhau, làm
giảm tính chủ động, sáng tạo, dẫn đến năng suất lao động, hiệu suất công tác
thấp, đùn đẩy trách nhiệm, tiêu cực, cản trở phát triển, phát sinh phiền nhiễu,
giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Tầng nấc trung gian dẫn đến mất thời gian
qua “nhiều cửa” thủ tục hành chính, gây cản trở, thậm chí tạo điểm nghẽn, làm
lỡ cơ hội phát triển. Chi phí vận hành hệ thống tổ chức bộ máy lớn, làm giảm
nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân. So với những thay đổi to lớn của đất nước sau
40 năm đổi mới, sự phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những
thành tựu khoa học công nghệ; tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta tuy đã
được đổi mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ
hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là trái
với quy luật phát triển; tạo ra tâm lý “Nói không đi đôi với làm”.
2. Thời điểm 100 năm
đất nước ta dưới sự lãnh đạo Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để
đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường,
những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng,
thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy
cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị, với một số công tác trọng tâm, sau đây:
Thứ nhất: xây dựng và tổ chức
thực hiện trong toàn hệ thống chính trị mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ
thống chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách
mạng mới. Tập trung tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ
6 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”,
đánh giá nghiên túc, toàn diện về tình hình và kết quả đạt được, những ưu điểm,
khuyết điểm, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá
trình thực hiện Nghị quyết; đề xuất, kiến nghị với Bộ chính trị, Ban chấp hành
trung ương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Tổng kết
phải tiến hành khách quan, dân chủ, khoa học, cụ thể, sâu sắc, cầu thị, sát
đúng với tình hình thực tiễn từ đó đề xuất mô hình tổ chức mới, đánh giá ưu
điểm và tác động khi thực hiện mô hình mới, phải bám sát Hiến pháp, Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nguyên tắc của Đảng, các Nghị quyết của Trung
ương... bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, một cơ quan thực hiện nhiều
việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc
phục triệt để chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực;
hạn chế tổ chức trung gian; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể
trên cơ sở tính đảng, tính hợp lý, tính hợp pháp.
Thứ hai: tập trung hoàn thiện
thể chế theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” để nhanh chóng đưa chủ trương
của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Rà soát các quy định pháp luật có liên
quan để chủ động chuẩn bị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo đúng quy
định, bảo đảm chủ trương của Đảng được triển khai nhanh nhất sau khi được Trung
ương thống nhất thông qua. Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động
của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu
trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế,
giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát và cải cách tối đa thủ
tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh
nghiệp. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách,
pháp luật với cấp tổ chức thực hiện.
Thứ ba: gắn tinh gọn tổ
chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm
nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh. Ban hành quy định về khung tiêu
chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại
hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay. Đổi mới mạnh mẽ công tác
tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ
theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm
được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu
hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội.
V.I Lênin khi nói về
cải tiến bộ máy Nhà nước đã nhấn mạnh: “Phải tuân theo quy tắc này: thà ít mà
tốt... Tôi biết rằng giữ vững quy tắc ấy và vận dụng được nó vào tình hình thực
tế của chúng ta là khó khăn... Tôi biết rằng sẽ phải kháng cự một cách mãnh
liệt, sẽ phải tỏ ra kiên trì phi thường... Song tôi vẫn tin chắc rằng chỉ có
tiến hành công tác đó, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước cộng hòa thật
sự xứng danh là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô- Viết”[1]; xây dựng tổ chức
bộ máy hiệu lực hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết,
thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm
rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, tất cả vì sự một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sớm sánh vai với
các cường quốc năm châu./.
Tô Lâm - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguồn:
VietNamNet
[1] V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ,
Mátxcơva, 1979, t.45, tr.445.
- NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ CỦA TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM VỀ KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
- Đối ngoại phải phát huy cao độ truyền thống vẻ vang, vươn lên những tầm cao mới*
- Tân Chủ tịch nước Lương Cường: Nỗ lực hết sức mình, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng, Nhà nước, Nhân dân tin tưởng giao phó
- Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Lễ trao giải Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024
- Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đi qua 20 địa phương
Đang truy cập: 27
Hôm nay: 239
Tổng lượt truy cập: 208,274